Hiện nay, cơ quan chức năng đã bắt quả tang và xử lý nhiều cá nhân, tổ chức ghi lô đề trái quy định pháp luật với quy mô từ nhỏ đến lớn, từ vài triệu cho đến vài chục tỷ đồng. Hình thức ghi lô đề chủ yếu hiện nay sẽ do một cá nhân làm chủ. Người đó sẽ ghi số mà các con đề cung cấp, ăn thua chia theo quy định của mỗi chủ ghi đề. Nhiều người nghĩ rằng, ghi lô đề quy mô nhỏ sẽ không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, ghi lô đề được xem là một hình thức đánh bạc. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, nếu bị phát hiện sẽ bị xử lý nghiêm minh. Vậy thực sự ghi lô đề có hợp pháp không? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi để biết thêm thông tin nhé!
Căn cứ pháp lý
- Nghị định 144/2021/NĐ-CP;
- Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Ghi lô đề có hợp pháp không?
- Theo Điều 322 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tổ chức đánh bạc được hiểu là hành vi chủ mưu rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác tham gia đánh bạc.
- Xét về bản chất, hành vi ghi đề là tổ chức cho những người chơi tham gia đánh đề, nó được xem như một hành vi giúp sức của tội đánh bạc song có thêm dấu hiệu trục lợi.
Dựa vào bản chất có điểm tương đồng, như vậy, ghi lô, đề cũng được xác định là hành vi tổ chức đánh bạc.
Hành vi ghi lô, số đề bị xử lý như thế nào?
Tùy vào tính chất, mức độ hành vi vi phạm, người tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi lô, đề có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc.
Mức phạt hành chính của tội ghi lô, số đề
Người thực hiện một trong các hành vi tổ chức đánh đề sau đây bị phạt tiền từ 10.000.000 đến 20.000.000 đồng:
- Làm chủ lô, đề
- Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề
- Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề.
Người thực hiện hành vi nêu trên còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Cơ sở pháp lý: Khoản 5 Điều 28, Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Hình phạt hình sự của tội ghi số, lô đề
Khung 1: Phạt tiền từ 50 triệu đến 300 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm nếu thuộc một trong các trường hợp.
- Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên hoặc tổ chức từ 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá từ 05 triệu đồng trở lên.
- Sử dụng địa điểm thuộc sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 05 triệu đồng trở lên.
- Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần trị giá từ 20 triệu đồng trở lên.
- Tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc.
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội này hoặc Tội đánh bạc, chưa được xóa án tích mà tái phạm.
Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm nếu thuộc một trong các trường hợp.
- Có tính chất chuyên nghiệp.
- Thu lợi bất chính 50 triệu đồng trở lên.
- Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội.
- Tái phạm nguy hiểm.
Hình phạt bổ sung:
Người phạm tội còn bị phạt tiền từ 20 – 100 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Cơ sở pháp lý: Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Cá nhân làm chủ lô đề khi bị xử phạt vi phạm hành chính có bị tịch thu tang vật, tịch thu số tiền bán số đề không?
Căn cứ điểm a khoản 5, khoản 6, khoản 7 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về hành vi đánh bạc trái phép như sau:
Hành vi đánh bạc trái phép
5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:
a) Làm chủ lô, đề;
b) Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề;
c) Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;
d) Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.
6. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại khoản 1; khoản 2; các điểm a và b khoản 3; các điểm b, c và d khoản 4 và khoản 5 Điều này;
b) Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại điểm đ khoản 3 Điều này;
c) Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.
7. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1; khoản 2; các điểm a và b khoản 3; các điểm b, c và d khoản 4 và khoản 5 Điều này.
Theo đó, người làm chủ lô đề sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Đồng thời người vi phạm sẽ bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm trên.
Trong trường hợp người làm chủ lô đề là người nước ngoài thì ngoài có biện pháp xử phạt trên, người này còn bị áp dụng hình thức xử phạt là trục xuất.
Mức phạt tiền trên là mức phạt được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân ( quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 144/2021/NĐ-CP).
Cá nhân làm chủ lô đề khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nào?
Căn cứ Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 121 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc như sau:
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
1.Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Theo đó, người làm chủ lô đề sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 322 nêu trên.
Và tùy thuộc vào mức độ của hành vi vi phạm mà người làm chủ lô đề có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự bởi các khung hình phạt khác nhau được quy định tại Điều 322 nêu trên.
Video giải đáp thắc mắc Tại sao lô đề bị cấm còn xổ số thì không?
Mời bạn xem thêm các bài viết sau:
- Quy trình kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm
- Xử phạt khi không có giấy chứng nhận an toàn thực phẩm như thế nào?
- Mẫu hợp đồng thuê lại đất tại Đà Nẵng
Khuyến nghị:
Đội ngũ công ty Luật sư Đà Nẵng luôn sẵn sàng lắng nghe, giải đáp, cung cấp dịch vụ pháp lý liên quan. Với các luật sư có chuyên môn cao cùng kinh nghiệm dày dặn, chúng tôi sẽ hỗ trợ 24/7 giúp bạn tiết kiệm chi phí và ít đi lại
Thông tin liên hệ
Vấn đề Ghi lô đề có hợp pháp không? đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư Đà Nẵng luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan như là dịch vụ Trích lục hồ sơ thửa đất vui lòng liên hệ đến hotline 0833.102.102. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện.
Câu hỏi thường gặp
Ghi lô đề online là một hình thức đánh bạc qua mạng. Đây là trường hợp người phạm tội sử dụng mạng internet, phương tiện điện tử như điện thoại để đánh bạc trực tuyến trái phép.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, việc sử dụng mạng internet, phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến là một trong những tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với Tội đánh bạc.
Bởi hoạt động kinh doanh xổ số hiện nay được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước bằng pháp luật, như: Nghị định 30/2007/NĐ-CP, Nghị định 78/2012/NĐ-CP, Nghị định 151/2018/NĐ-CP, Luật doanh nghiệp 2020, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2013…
Khoản 1 Điều 1 Nghị định 78/2012/NĐ-CP; đã xác định rõ xổ số là ngành nghề kinh doanh có điều kiện; chịu sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để “đảm bảo đáp ứng nhu cầu giải trí của một bộ phận người dân có thu nhập chính đáng và đảm bảo an ninh; trật tự và an toàn xã hội.”
Trên cơ sở đó; thu nhập từ hoạt động kinh doanh xổ số ngoài chi trả tiền thưởng cho người tham gia, trả lương cho nhân viên và “hoa hồng” cho đội ngũ phân phối, thì còn được đóng góp vào ngân sách nhà nước để chi dùng cho lợi ích công cộng.
Chưa kể; bản thân người trúng thưởng cũng phải nộp lại một phần khoản thưởng của mình dưới danh nghĩa thuế thu nhập cá nhân theo quy định tại Điều 15 Thông tư 111/2013/TT-BTC.
Trong khi ấy; hoạt động ghi và chơi lô đề lại mang tính tự phát; tỷ lệ ăn thua cao đến bất thường; luật chơi có quá nhiều biến thể phức tạp; thường kéo theo nhiều hệ lụy tiêu cực; mà nhất là “tín dụng đen”.
Việc chỉ ngồi xem thì không phải là hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay hành chính. Và tất nhiên, việc trước đó bị tịch thu tài sản “oan” sẽ được hoàn trả nếu như bạn chứng minh rằng mình chỉ ngồi xem ghi lô đề mà không tham gia vào.