Bạo lực học đường là một trong những vấn nạn và luôn được xã hội vô cùng quan tâm. Những đứa trẻ cấp hai, cấp ba thậm chí là cấp 1 có thể dễ dàng đánh nhau vì một việc nhỏ mà chúng không biết rằng hậu quả của hành vi có thể vô cùng nghiêm trọng. Với đối tượng là trẻ em thì việc xử lý luôn được cân nhắc và xem xét do độ tuổi chưa chín chắn chưa đủ để suy nghĩ thấu đáo về các vấn đề. Thông thường khi người trưởng thành đánh nhau nếu gây ra thương tích trên 11% cho nạn nhân sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy nếu chủ thể thực hiện là người dưới 14 tuổi thì ra sao? Xử lý với người dưới 14 tuổi như thế nào? Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, xin mời bạn đọc tham khảo bài viết “Trẻ dưới 14 tuổi đánh nhau có bị xử lý hình sự?” của Luật sư Đà Nẵng chúng tôi.
Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ tuổi mà pháp luật hình sự quy định cá nhân đủ tuổi để chịu trách nhiệm về tội phạm hình sự mà mình đã thực hiện. Đay là một trong các yếu tố để xác định năng lực trách nhiệm hình sự của cá nhân. Tùy thuộc vào từng tội mà có các độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khác nhau trong đó nhiều tội mà trẻ vị thành niên cũng là chủ thể thực hiện tội phạm. Trường hợp chưa đủ tuổi theo quy định tại Điều luật đó thì người thực hiện hành vi dù nguy hiểm cho xã hội thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
– Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật Hình sự có quy định khác.
– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau:
+ Tội giết người (Điều 123)
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134)
+ Tội hiếp dâm (Điều 141)
+ Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142)
+ Tội cưỡng dâm (Điều 143)
+ Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144)
+ Tội mua bán người (Điều 150)
+ Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151)
+ Tội cướp tài sản (Điều 168)
+ Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169)
+ Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170)
+ Tội cướp giật tài sản (Điều 171)
+ Tội trộm cắp tài sản (Điều 173)
+ Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178)
+ Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248)
+ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249)
+ Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250)
+ Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251)
+ Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252)
+ Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 265)
+ Tội đua xe trái phép (Điều 266)
+ Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286)
+ Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287)
+ Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (Điều 289)
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290)
+ Tội khủng bố (Điều 299)
+ Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303)
+ Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304)
Trong đó tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 9 Bộ luật hình sự như sau:
-Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
– Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Trẻ dưới 14 tuổi đánh nhau có bị xử lý hình sự?
Đánh đau được xác định là hành vi cố ý gây thương tích. Tùy thuộc vào mức độ thương tích của nạn nhân, công cụ, phương tiện thực hiện; năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể; nạn nhân của hành vi, thủ đoạn, lý do thực hiện,… mà sẽ xác định có truy cứu trách nhiệm hình sự với họ hay không.
Theo Điều 10 Bộ luật hình sự quy định, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau:
+ Tội giết người (Điều 123)
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134)….
Theo đó có thể thấy tuổi chịu trách nhiệm hình sự thấp nhất là từ đủ 14 tuổi trở lên. Do đó trẻ em dưới 14 tuổi đánh nhau sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Trẻ dưới 14 tuổi đánh nhau bị xử lý như thế nào?
Trẻ em dưới 14 tuổi đánh nhau sẽ không bị xử lý hình sự vậy liệu họ có bị xử phạt vi phạm hành chính hay không.
Theo Khoản 1 Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định về các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
“a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.
Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền xử lý;
b) Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra;
c) Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác….”
Theo đó việc xử phạt vi phạm hành chính chỉ áp dụng với người từ đủ 14 tuổi trở lên. Còn dưới 14 tuổi sẽ không bị xử phạt hành chính.
Tuy nhiên dù không bị xử phạt hành chính nhưng tùy vào hậu quả của việc đánh nhau mà các bên có thể phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bị thương tích. Trong đó xác định chủ thể bồi thường thiệt hại sẽ theo quy định của Bộ luật dân sự.
Căn cứ Điều 13, Khoản 3 Điều 599 Bộ luật Dân sự 2015 quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
-Người từ đủ 18 trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
-Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình;
Nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
-Người chưa đủ 15 tuổi:
+ Ngoài phạm vi trường học: Gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại;
Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 Bộ luật dân sự 2015.
+Trong phạm vi trường học:
Trường học chứng minh không có lỗi trong quản lý: Cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.
Trường học không chứng minh được không có lỗi trong quản lý: Người chưa đủ 15 tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
Như vậy, theo quy định trên thì khi trẻ dưới 14 tuổi đánh nhau cần xem xét về chủ thể chịu trách nhiệm quản lý khi đó để xác định người phải bồi thường thiệt hại.
Mời bạn xem thêm các bài viết sau:
- mẫu đơn xin xác nhận nhân thân
- Xử phạt khi không có giấy chứng nhận an toàn thực phẩm như thế nào?
- Mẫu hợp đồng thuê lại đất tại Đà Nẵng
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Trẻ dưới 14 tuổi đánh nhau có bị xử lý hình sự?“ đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư Đà Nẵng luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan, vui lòng liên hệ đến hotline. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện.
Câu hỏi thường gặp
Việc phối hợp trong việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi được hướng dẫn bởi Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH và Điều 417 BLTTHS 2015, cụ thể như sau:
Để xác định tuổi của bị can, bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải áp dụng mọi biện pháp để xác định chính xác ngày, tháng, năm sinh của họ căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu được thu thập theo trình tự, quy định của pháp luật sau: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân; Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu.
Trường hợp các chứng cứ trên có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với cá nhân, tổ chức có liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của người đó.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2, 3 Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định tuổi của họ như sau:
– Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
– Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
– Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
– Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
– Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định độ tuổi để xác định tuổi và lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi của họ khi chỉ xác định được khoảng độ tuổi bị can, bị cáo, bị hại.
Nếu trẻ em dưới 14 tuổi đánh nhau gây thương tích cho người khác thì phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe.
Căn cứ tại Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như sau:
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm gồm:
– Chi phí được cho là hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng hoặc phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
– Những thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu trường hợp thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì sẽ áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
– Người có trách nhiệm bồi thường đối với trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 590 và một khoản tiền khác để bù đắp những tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần sẽ do các bên thỏa thuận, nếu như không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạmđược xác định là không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.